| Giỏ hàng của bạn không có sản phẩm. |

Sách Tiếng Việt
Sách Con người và sự nghiệp giáo dục của Đức Phật
Sách là trích dẫn từ kinh điển chứng minh rằng, Đức Phật là một nhà giáo dục vĩ đại, một nhà nghệ thuật chân chính hiểu được cuộc sống, đồng thời cũng là một kỹ sư tâm hồn. Một cuốn sách tham khảo cần thiết cho những ai có chí hướng nghiên cứu về GIÁO DỤC và PHẬT HỌC. Tác giả cho rằng: Tư tưởng giáo dục của Đức Phật không chỉ có tác dụng và phù hợp với 2.500 năm trước mà ngay cả đến ngày hôm nay, những kiến giải tinh túy và uyên thâm, năng lực thấu hiểu nhân tính và sự vật, thái độ sống hoàn mỹ, sự tu dưỡng, nhân cách cao cả của Ngài vẫn luôn là mẫu mực cho những hành vi của nhân loại.
106.000đ
116.000đ
-9%Sách Cuộc đời Đức Phật Thích Ca
Thông Tin Sản Phẩm
Mã Sản Phẩm: VNTT081
Kích Thước: 16cm x 24cm
Chất Liệu Bìa: Mềm Phủ UV
Số Trang: 300
Ruột Giấy : Off Nhật
Số Lượng: 1 Cuốn
Trọng Lượng: 220g ( Chưa gồm bao bì )
Tác Giả: GUNAPAYUTA
Dịch Giả: Nhóm học viên phiên dịch tiếng Anh 2021
Sản Xuất: Việt Nam
148.000đ
155.000đ
-5%Sách Dịch Lý Y Lý : Bách khoa toàn thư Đông Y
TỰA
PHÀM LỆ
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA KINH DỊCH
A. Định nghĩa về chữ Dịch
B. Nghiên cứu và ứng dụng của Kinh Chu Dịch
C. Tác giả của Kinh Dịch
D. Bố cục
E . Vấn đề đắc vị, đắc thời, đắc trung, đắc chính.
F. Cảm ứng và biến thông qua hào, quái
G. Quan hệ giữa Đức của một hào và thể của một quẻ
H. Vấn đề “Nguyên, hanh, lợi, trinh”, “cửu – vô cửu”.
CHƯƠNG II: DỊCH HỮU THÁI CỰC
A. Vấn đề Toàn và Chân
B. “Vạn vật tư thỉ” và Đạo trong Kinh Dịch
C. Vấn đề “Tinh khí của Thái cực tạo ra vạn vật”
CHƯƠNG III: THÁI CỰC SINH LƯỠNG NGHI
A. Những nét phát họa từ Lưỡng nghi trong Kinh đến Âm Dương trong dực truyện của Kinh Dịch
B. Dương trước Trâu Diễn
C. Quá trình khái quát hóa Âm Dương, Ngũ hành
D. Thái cực – Lưỡng nghi khí hóa vạn vật hữu hình
E. Bảng lược đồ hoàn chỉnh: Thái cực và Thái cực đồ thuyết của Chu Liêm Khê
F. Luật Biến hóa theo Dị giản, Biến dịch và Bất dịch qua Kinh Dịch
G. Âm Dương giao cảm và quan hệ Thiên – Nhân – Địa
H. Như chiếc “vòng ngọc không đầu mối”
CHƯƠNG IV: TỨ TƯỢNG
A. Quá trình vận hành khí hóa ở Thiên tượng
B. Tứ tượng vận hành ở Địa và Nhân
C. Tượng và ý trong Kinh Dịch (theo sự giảng giải của Vương Bật)
D. Tứ tượng và sự vận hành biến hóa “sinh, trưởng, thu, tàng” trong Trời Đất
CHƯƠNG V: TIÊN THIÊN BÁT QUÁI
A. Lý luận đại cương
B. Thái cực và Tiên thiên Bát quái của Phục Hy qua sự lý giải của Tống Nho
C. Tiên thiên Bát quái phương vị và số thuận nghịch
CHƯƠNG VI: HẬU THIÊN BÁT QUÁI
A. Văn vương và Hậu thiên Bát quái
B. Quá trình hình thành Hậu thiên Bát quái
C. Hậu thiên Bát quái phương vị
CHƯƠNG VII: HÀ ĐỒ VÀ LẠC THƯ
A. Vấn đề xuất hiện của Hà Đồ và Lạc Thư
B. Điểm và số của Hà Đồ
C. Vấn đề Tiên thiên Bát quái phối với Hà Đồ
D. Thứ tự vận hành của Hà Đồ
E. Vấn đề xuất hiện của Lạc Thư
F. Điểm và số của Lạc Thư
G. Thứ tự vận hành của các con số trong Lạc Thư qua một số tài liệu
H. Thử đề nghị một cách giải thích chiều vận hành trong Lạc Thư
J. Hà-Lạc và Cửu cung Bát phong
K. Hà-Lạc và Thiên văn học Trung Quốc
L. Hậu thiên Bát quái, Cửu cung Bát phong phối trí Thập nhị nguyệt
CHƯƠNG VIII: LỤC THẬP TỨ QUÁI
TỔNG KẾT
THƯ MỤC
MỤC LỤC
243.000đ
270.000đ
-10%Sách Đại Ý Kinh Pháp Hoa
Thông Tin Sản Phẩm
Mã Sản Phẩm: VNTT007
Kích Thước: 14.5cm x 20.5cm x 1.5cm
Chất Liệu Bìa: Mềm
Số Trang: 326
Số Lượng: 1 Cuốn
Trọng Lượng: 300g ( Chưa gồm bao bì )
Tác giả: Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm
Sản Xuất: Việt Nam.
116.000đ
126.000đ
-8%Sách Đám Ma Tôi – Hoài Điệp
ĐÁM MA TÔI – HOÀI ĐIỆP
“Đám ma tôi” được nhà xuất bản Tân Việt ấn hành lần thứ nhất vào tháng 11 năm 1940, khi thi sĩ Đinh Hùng vừa mới 20 tuổi. Song nhiều ý kiến cho rằng, có thể tập văn xuôi này được ông viết sớm hơn hoặc có ý định viết từ mấy năm trước đó.
Nội dung “Đám ma tôi” thể hiện cách nghĩ của chàng trai trẻ đối với đời sống xung quanh, về quan niệm sống – chết ở đời. Điều đặc biệt là thay vì chọn làm người sống để nói về người chết như cách tư duy thông thường, Đinh Hùng làm ngược lại, chọn làm người chết để nói đến “từng những đời sống rải rác ở đây, ở đó, từng những cuộc đời chiêm bao”.
Cụ thể, trong tập văn xuôi, thi sĩ Đinh Hùng thể hiện câu chuyện người con trai 17 tuổi kể trong lúc cậu đang nằm chết, cậu chết đi trong một buổi chiều khi còn là đứa trẻ ngây thơ. “Tôi chết nằm im trên giường, hai tay buông xuôi, mắt nhắm nghiền, ngực không còn thoi thóp.” Chết là việc thản nhiên với cậu bởi có sống ắt sẽ có chết, điều đáng mừng là cậu không phải sống đến tám mươi năm trời ngục thất như lời của ông thầy tướng năm xưa.
Bằng giọng văn giễu cợt không chút kiêng kỵ trong “Đám ma tôi”, Đinh Hùng đã sáng tác một bài thơ chia ly “để thấy lòng mình đơn chiếc”, “vẽ phác bóng một rừng người qua mắt để trông, nhìn vài cảnh tượng hay hay… Tôi sống trước để mà cảm trước, tôi chết từ khi đang sống để hiểu thêm ý nghĩa đời này”.
THÔNG TIN TÁC GIẢ:
HOÀI ĐIỆP – Tên thật Đinh Hùng (1920-1967) là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Ngoài việc ký tên thật Đinh Hùng, ông còn dùng bút hiệu Thần Đăng khi làm thơ châm biếm và Hoài Điệp Thứ Lang khi viết tiểu thuyết. Đinh Hùng sinh ngày 3 tháng 7 năm 1920 tại làng Phượng Dực tỉnh Hà Đông (nay thuộc Thủ đô Hà Nội), là con út cụ Hàn Phụng (tên Phụng, chức hàn lâm thị độc). Thuở nhỏ Đinh Hùng theo bậc tiểu học tại trường Sinh Từ, rồi bậc trung học tại trường Bưởi (Hà Nội). Sau khi đậu “cao đẳng tiểu học” hạng bình thứ và được học bổng theo ban chuyên khoa để thi tú tài bản xứ thì “thần Ái tình đã hiện đến cùng một lúc với sự thành công đầy hứa hẹn trên” (theo lời kể của Vũ Hoàng Chương), khiến ông bỏ ngang đi viết văn, làm thơ. Năm 1931, người chị thứ ba của ông tên Tuyết Hồng đã tự vẫn tại hồ Trúc Bạch vì hờn giận tình duyên. Mấy tháng sau cha ông cũng qua đời khi chưa đến tuổi 50. Ba năm sau, người chị lớn nhất của ông cũng chết trẻ. Năm 1943, Đinh Hùng theo sống với chị là bà Thục Oanh. Cũng năm này, ông cho xuất bản tập văn xuôi Đám ma tôi và đăng thơ trên Hà Nội tân văn của Vũ Ngọc Phan, Giai phẩm Đời Nay của nhóm Tự Lực văn đoàn…
Nhưng ông thật sự bắt đầu nổi tiếng với bài thơ “Kỳ Nữ” mà Thế Lữ chọn in trong truyện Trại Bồ Tùng Linh. Năm 1944, Vũ Hoàng Chương cưới Thục Oanh rồi về Nam Định, Đinh Hùng ở lại Hà Nội và cho ra đời giai phẩm Dạ Đài, với sự cộng tác của một số bạn như Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch,…Cũng trong năm này, Đinh Hùng tản cư theo báo Cứu Quốc. Sau đó, ông về Thái Bình dạy học cùng người vợ mới cưới (Nguyễn Thị Thanh). Khi ấy, Vũ Hoàng Chương và vợ cũng đang tản cư về ở nơi đó. Năm 1949, Đinh Hùng cùng vợ con trở lại Hà Nội. Tại đây ông cho ấn hành giai phẩm Kinh Đô văn nghệ (1952) và tập thơ Mê Hồn ca (1954). Tháng 8 năm 1954, ông cùng vợ con vào Sài Gòn, lập ra tờ nhật báo Tự Do, có sự cộng tác của Tam Lang, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong,…
Năm 1955, nhật báo trên đình bản, ông cộng tác với Đài phát thanh Sài Gòn, giữ mục Tao Đàn, chuyên về thơ ca, cho đến hết đời. Trong những năm tháng ở Sài Gòn, Đinh Hùng viết tiểu thuyết dã sử Cô gái gò Ôn khâu, Người đao phủ thành Đại La và làm thơ trào phúng trên báo Tự Do, báo Ngôn Luận.
Năm 1961, ông cho in tập Đường vào tình sử (tác phẩm này được trao giải thưởng Văn chương về thi ca năm 1962). Năm 1962, ông cho ra tuần báo Tao Đàn thi nhân, nhưng mới phát hành được 2 số thì ông mất lúc 5 giờ sáng ngày 24 tháng 8 năm 1967 tại bệnh viện Bình Dân, Sài Gòn, vì bệnh ung thư gan.
Sau khi ông mất, nhà xuất bản Giao điểm cho phát hành tác phẩm Ngày đó có em vào ngày 16 tháng 10 năm 1967. Ngoài những tác phẩm vừa kể trên, Đinh Hùng còn có 8 tác phẩm chưa xuất bản: Tiếng ca bộ lạc (thơ), Tiếng ca đầu súng (hồi ký), Dạ lan hương (văn xuôi), Sử giả (tùy bút), Vần điệu giao tình (cảo luận) và 3 kịch thơ: Lạc lối trần gian, Phan Thanh Giản, Cánh tay hào kiệt.
269.000đ
299.000đ
-10%Sách Đập Chắn Thái Bình Dương
Giới thiệu sách Đập Chắn Thái Bình Dương
Bối cảnh của Đập chắn Thái Bình Dương là những năm 1930 của thế kỷ 20. Dufresne, một giáo viên người Pháp, góa chồng, quyết định tới Đông Dương lập nghiệp cùng hai đứa con. Bà khó nhọc xoay xở, chơi đàn piano suốt 10 năm ở rạp hát, dành dụm tiền mua một khu đất lập đồn điền. Không tiền lót tay cho quan chức chính quyền thực dân, bà chỉ nhận được một miếng đất xấu, ngập lụt mỗi lần lũ triều tháng 7 tràn về, không trồng cấy gì được.
Thông qua câu chuyện, tác giả đã dựng lên một bức tranh đậm chất phương Đông, nơi những xung đột tình cảm và những khác biệt về văn hóa gây cảm xúc mạnh mẽ, làm nên sự hấp dẫn cho cuốn sách.
Marguerite Duras
Marguerite Duras (4 tháng 4 năm 1914 – 3 tháng 3 năm 1996), là một tiểu thuyết gia, kịch tác gia, biên kịch, nhà viết tiểu luận và nhà làm phim thể nghiệm người Pháp.
Tác phẩm Duras gồm khoảng bốn mươi tiểu tuyết và mười vở kịch. Bà cũng đã thực hiện nhiều bộ phim, trong đó có India Song và Les enfants. Cuộc đời của Duras cũng như một cuốn tiểu thuyết. Bà không ngừng viết, những câu chuyện về nỗi đau, về bão tố, về rượu và những nỗi muộn phiền, về những lời nói và sự im lặng…
269.000đ
299.000đ
-10%Sách Đồ Họa Cổ Việt Nam (Bìa Cứng)
ĐỒ HỌA CỔ VIỆT NAM
Ban đầu chúng tôi chỉ có ý định làm cuốn sách về đồ họa Phật giáo, một kho tàng văn hóa cổ Việt Nam vốn chưa được khai thác, những sách này bao gồm các bản in và các mộc bản lưu trữ tại các chùa Việt Nam và chúng tôi chỉ định khai thác đồ họa tranh, nhưng lúc đó họa sỹ Trương Hạnh e ngại một cuốn sách Phật Giáo thuần túy và cần phải xin phép của ban tôn giáo chính phủ, nên ông đề nghị làm cuốn Đồ họa cổ Việt Nam. Như vậy chúng tôi phải thêm các phần tranh dân gian vào sách và phần đồ họa Phật Giáo vẫn chiếm tỉ lệ lớn trong sách (70%)
Đồ họa kinh sách phật giáo có cả ngàn năm lịch sử ít nhất từ thời Lý đến thời Nguyễn, nhưng do chiến tranh, thời gian đã không cho phép chúng ta có thể lưu trữ các ấn phẩm từ thời Lý, cổ nhất có thể tìm thấy bản in kinh chùa Vạn Đức, Hội An vào thế kỷ thứ 16, các bản in thế kỷ 17 cũng ko còn nhiều mà chủ yếu là vào thế kỷ 18,19 ở các chùa đồng bằng Bắc Bộ. Chưa kể một số lượng sách Nho giáo, Đạo Giáo, sách thuốc và các sách xã hội khác được ấn loát trong thời phong kiến đủ là một kho tàng đồ họa cổ Việt Nam đồ sộ.
“Cuốn sách Đồ họa cổ Việt Nam được nhóm làm sách chúng tôi khởi dựng từ những năm 1995/1996 cùng nhau thực hiện vào năm 1998 và được NXB in vào năm 1999, có thể nói không có họa sỹ Trương Hạnh thì cuốn sách khó có thể ra đời vì ông dành nhiều chi phí của NXB và công sức để in cuốn sách này, năm 2003 nhân có triển lãm văn hóa Việt Nam tại bảo tàng New York, quỹ Ford đã tài trợ cho chúng tôi tiền dịch cuốn sách đó ra tiếng Anh, người dịch là tiến sỹ ngôn ngữ Thế Hùng, kho đó ông đã gần 80 tuổi” – Phan Cẩm Thượng
809.000đ
899.000đ
-10%Sách Giải mã Thiền Định và Giải thoát
Cuốn sách trình bày: quá trình tu chứng của bản thân Đức Phật; nội dung giảng dạy của Ngài cho hàng đệ tử; phương pháp dẫn dắt những hành giả đạo khác đã có kinh nghiệm thiền định, cùng nhau đạt được giải thoát…
Thông Tin Sản Phẩm
Mã Sản Phẩm: VNTT010
Kích Thước: 14,5cm x 20,5cm 2cm
Chất Liệu Bìa: Cứng Dập Nhũ Vàng
Số Trang: 540
Ruột Giấy : Foff Nhật
Số Lượng: 1 Cuốn
Trọng Lượng: 710g ( Chưa gồm bao bì )
Tác Giả: Thích Đỗng Hằng
Dịch Giả: Thích Vạn Lợi – Đặng Ngọc Diệp
Sản Xuất: Việt Nam
289.000đ
300.000đ
-4%Sách Giải thoát trong lòng tay – bộ 2 tập
Sách Giải thoát trong lòng tay
Dịch phẩm Giải Thoát Trong Lòng Tay do Ni trưởng Thích nữ Trí Hải chuyển dịch là một công trình to lớn, chuyển tải nhiều quan điểm và phương pháp thực nghiệm sâu sắc của truyền thống Phật giáo Tây Tạng.
Tác giả bộ sách là ngài Pabongka Rinpoche, một vị Lạc ma thuộc phái Hoàng mạo có kiến thức uyên bác và kinh nghiệm thực hành sâu sắc. Điểm đặc biệt của ngài Pabongka Rinpoche là trong những bài thuyết giảng của mình, Ngài luôn luôn đặt trọng tâm vào việc thực hành bằng cách chỉ rõ những cách thức đơn giản và cụ thể nhất để mọi người có thể ứng dụng các pháp môn tu tập của đạo Phật.
Dịch phẩm Giải Thoát Trong Lòng Tay này đã được dịch giả rà soát lại rất kỹ chắc chắn sẽ giới thiệu nhiều nội dung sâu sắc của truyền thống Phật giáo Tây Tạng, rất lợi lạc và bổ ích cho những ai trân trọng con đường tâm linh.
Cảm niệm thâm ân của Thầy mình, các đệ tử của Ni trưởng đã nỗ lực xem lại bản thảo của dịch phẩm và mong muốn được ấn tống vào dịp này, một mặt để cúng dường Tam bảo nhân kỷ niệm ngày Đại tường của Ni trưởng Thích nữ Trí Hải, mặt khác để giới thiệu một công trình Phật pháp, làm lợi ích cho nhiều người. Đây là việc làm rất có ý nghĩa của người con Phật.
Thông tin tác giả
Ngài Pabongka Rinpoche, một vị Lama thuộc phái Hoàng mạo, có kiến thức uyên bác và kinh nghiệm thực hành sâu sắc. Điểm đặc biệt của ngài Pabongka Rinpoche là, trong những bài thuyết giảng của mình, Ngài luôn luôn đặt trọng tâm vào việc thực hành bằng cách chỉ rõ những cách thức đơn giản và cụ thể nhất để mọi người có thể ứng dụng các pháp môn tu tập của đạo Phật.
Nhà xuất bản: Đà Nẵng
Phát hành: Thiện Tri Thức
Tác giả: Pabongka Rinpoche
Số trang: 1100
Dịch giả: Thích Nữ Trí Hải
Loại bìa: Bìa mềm
Sách có tại Nhà sách An Thư
Fanpage: Anthubooks/fanpage
395.000đ
500.000đ
-21%Sách Gửi em, bạn trẻ mới bước vào đời tu
Gửi em, bạn trẻ mới bước vào đời tu
- Tác giả: Tu sĩ Giuse Vũ Đức Trung, CSsR
- ISBN: 978-604-61-9782-9
- Kích thước: 13 x 19 cm
- Số trang: 160 trang trắng đen, bìa mềm
- Phát hành: 10.2023
- Nhà xuất bản: Tôn Giáo
Giới thiệu nội dung sách
Cuốn sách này là tập hợp hai mươi lá thư tâm sự của bản thân người viết muốn gửi đến các bạn trẻ mới bước vào đời tu. Họ là các ứng sinh, các em dự tu, dự tập, thỉnh sinh của các giáo phận, các dòng tu. Hai mươi bài chia sẻ được viết ra với mong muốn không gì khác hơn là truyền cảm hứng và hỗ trợ các bạn trẻ vượt qua những cú sốc văn hoá, những bỡ ngỡ trong thời gian đầu tìm hiểu ơn gọi. Những lời khuyên được đúc kết không phải từ trí tưởng tượng của cá nhân người viết, nhưng là từ những bài học, những hướng dẫn trong các giờ nhân bản, đồng hành và chia sẻ trong đời thường của các nhà đào tạo mà chính người viết được thụ huấn.
Giuse Vũ Đức Trung, CSsR
Nội dung của những bức thư đơn thuần gói ghém nhiều cảm nhận, nhìn nhận và những bài học về bản thân và về ơn gọi tu trì đến từ những trải nghiệm của chính tác giả. Trải nghiệm trong cuộc sống ai cũng có, chỉ cần chúng ta sống và hít thở không khí thì chúng ta đã trải nghiệm. Nhưng trải nghiệm chỉ bổ ích cho chúng ta khi những “nguyên liệu thô” đó được đưa vào quá trình suy tư, cầu nguyện và phân định để nhận ra những bài học giá trị cho chính mình và cho người khác.
0đ
63.000đ
-%Sách Hạnh phúc bắt đầu từ hôm nay (Bộ Ranh giới giữa mê và ngộ tập 02)
Chặng đường ngàn dặm, muốn đi cũng phải bắt đầu từng bước; sách vở vạn quyển, muốn đọc cũng phải lật từng trang; cuộc sống muốn hạnh phúc, chúng ta phải bắt đầu từ hôm nay… Khi ấy hạnh phúc thật hần, thành công không còn xa ta nữa!
Thông Tin Sản Phẩm
Mã Sản Phẩm: VNTT052
Kích Thước: 11,5cm x 18cm 1,6cm
Chất Liệu Bìa: Mề Phủ UV
Số Trang: 268
Ruột Giấy : Foff Nhật
Số Lượng: 1 Cuốn
Trọng Lượng: 210g ( Chưa gồm bao bì )
Tác Giả: Hòa Thượng Tinh Vân
Dịch Giả: Thích Nữ Chơn Như – Thích Nữ Tường Duyên – Liên Hướng
Sản Xuất: Việt Nam
122.000đ
130.000đ
-6%Sách Hoàng Hoa Thám – Paul Chack
HOÀNG HOA THÁM – PAUL CHACK
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế do người anh hùng áo vải Hoàng Hoa Thám lãnh đạo là cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài nhất trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Đây cũng là minh chứng đầy thuyết phục về sức mạnh tiềm tàng của người nông dân đất Việt….
Hoàng Hoa Thám, còn gọi là Đề Dương, Đề Thám (“Đề đốc” Thám) hay Hùm thiêng Yên Thế, là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Thế chống thực dân Pháp (1885 – 1913). Dù những tư liệu về Đề Thám và Yên Thế đã có mặt trong nhiều tác phẩm, tư liệu khảo cứu, nhưng việc xác định góc nhìn của của độc giả đương thời về con người và cuộc khởi nghĩa này vẫn chưa được hoàn chỉnh, mặc dù có thể đã đi theo những lối mòn về việc phân tích cái đúng, cái sai của nhân vật cũng như sự kiện lịch sử này.
Để mang đến một góc nhìn có hơi hướng khác và cũng như có một chứng kiến rõ ràng hơn, chúng tôi mang tới với độc giả cuốn Hoàng Hoa Thám, nhưng Đề Thám và Yên Thế sẽ được khảo cứu dưới góc phân tích của Paul Chack (với tư cách là trợ lý cho các Toàn quyền Đông Dương trong thời kỳ ác liệt nhất của cuộc đàn áp khởi nghĩa Yên Thế (1909-1910) ông đã ghi lại cuộc đời của Hoàng Hoa Thám – thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa này qua cuốn “Giặc Hoàng Thám” xuất bản tại Pháp năm 1933).
212.000đ
250.000đ
-15%Sách Hoạt Động Chế Tạo Và Quản Lý Sử Dụng Vũ Khí Dưới Triều Nguyễn Giai Đoạn 1802 – 1883
HOẠT ĐỘNG CHẾ TẠO VÀ SỬ DỤNG VŨ KHÍ DƯỚI TRIỀU NGUYỄN 1802-1883
Triều Nguyễn là vương triều cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam gắn liền với nhiều biến cố quan trọng của lịch sử dân tộc. Trong 143 năm tồn tại (1802-1945), vương triều Nguyễn cũng đã có nhiều đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, đặc biệt là giai đoạn trị vì của Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức từ năm 1802 đến năm 1883. Trên thực tế, Gia Long lên ngôi đã ra sức củng cố chính quyền về mọi mặt và hoàn thành việc thống nhất đất nước sau hơn hai thế kỉ bị chia cắt, phân liệt. Minh Mệnh với công cuộc cải cách của mình đã đưa triều Nguyễn bước sang một giai đoạn mới, đặc biệt là đã khẳng định chủ quyền quốc gia đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tự Đức cũng có nhiều chính sách quan trọng trong việc phát triển văn hóa của đất nước. Giai đoạn lịch sử này cũng ghi nhận những thách thức to lớn đặt ra đối với vương triều Nguyễn. Trong đó, việc đối diện với nguy cơ bị xâm lược bởi thực dân phương Tây là thách thức lớn nhất. Đứng trước mối đe dọa đó, các hoàng đế triều Nguyễn đều có ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia và nỗ lực tìm kiếm đường hướng giải quyết với mong muốn ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xâm lược từ thực dân phương Tây cũng như giữ vững trật tự xã hội. Nhưng cuối cùng những nỗ lực trên chưa đạt được hiệu quả như kì vọng. Điều đó đã khiến cho Việt Nam bị rơi vào tay thực dân Pháp vào cuối thế kỉ XIX.
Vì cai trị đất nước trong một giai đoạn đầy biến động phức tạp như vậy, đặc biệt là việc để Việt Nam rơi vào tay thực dân Pháp vào cuối thế kỉ XIX có liên quan mật thiết đến triều Nguyễn nên trong một thời gian dài, vương triều này đã trở thành một trong những đề tài thu hút sự quan tâm đặc biệt của giới sử học và việc có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái chiều nhau khi đánh giá về triều Nguyễn cũng là điều hoàn toàn dễ hiểu. Năm 2008, hội thảo về triều Nguyễn do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa tổ chức đã giải quyết được nhiều vấn đề. Trong hội thảo này, giới sử học về cơ bản cũng đã tìm được tiếng nói chung trong việc đánh giá triều Nguyễn theo hướng khách quan, khoa học và công bằng hơn. Đương nhiên, triều Nguyễn vẫn còn không ít góc khuất cần được làm sáng tỏ. Các nhà khoa học vẫn đang miệt mài giải mã những bí ẩn để trả lại đúng vai trò, vị trí của vương triều này trong lịch sử dân tộc. Trong đó, hoạt động chế tạo và quản lý sử dụng vũ khí dưới triều Nguyễn trong giai đoạn 18 tư cách là một khí cụ dùng trong chiến đấu – đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài từ đơn sơ đến hiện đại. Có thể nói, vũ khí xuất hiện cùng với sự phát triển của loài người. Khi xã hội phân chia giai cấp, các cuộc chiến tranh diễn ra ngày càng nhiều thì việc chế tạo, quản lý, sử dụng vũ khí càng được con người chú ý nhiều hơn…
131.000đ
155.000đ
-15%Sách Hương Ước Làng Công Giáo Vùng Đồng Bằng Sông Hồng
HƯƠNG ƯỚC LÀNG CÔNG GIÁO VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
– NGUYỄN THỊ QUẾ HƯƠNG
Cũng như các tôn giáo khác, Công giáo từ khi du nhập vào Việt Nam (thế kỷ XVII) đến nay luôn đồng hành cùng dân tộc và có ảnh hưởng đến đời sống xã hội của người dân trong quá trình truyền giáo. Công giáo với nền văn hóa ngoại lại, từng bước hội nhập vào trong nền văn hóa dân tộc tạo nên sự phong phú và đa dạng cho văn hóa Việt Nam. Sự hội nhập văn hóa đó thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau như văn học, nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc, ngôn ngữ, lễ hội,…
Với cách tiếp cận mới – Tôn giáo học kết hợp với Sử học, Văn bản học, tác giả đã trình bày về lịch sử hình thành, quá trình phát triển, đặc điểm cũng như những nội dung cơ bản của hương ước làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng trong lịch sử và hiện tại qua 4 chương sách cụ thể như sau:
- Chương 1: Giới thiệu chung về vấn đề nghiên cứu.
- Chương 2: Lịch sử hình thành, quá trình phát triển của hương ước làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng.
- Chương 3: Những nội dung cơ bản của hương ước làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng.
- Chương 4: Hương ước làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng trong đời sống văn hóa – xã hội hiện nay.
Từ việc sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, tác giả đã chỉ ra nét đặc trưng của làng và hương ước làng Công giáo thể hiện qua những quy định khá chi tiết về các vấn đề như: Tế tự, (thực chất là các Thánh lễ) tục lệ, phong hóa, ruộng công và tổ chức thiết chế chính trị – tôn giáo, Hôn nhân, (nhất phu, nhất phụ). Điều đó thể hiện sự hội nhập văn hóa làng xã của Công giáo, sự hòa nhập giữa lối sống của người Việt và lối sống của người Công giáo, giữa truyền thống và hiện đại trong làng quê Việt Nam,
Từ việc so sánh những điểm tương đồng và khác biệt trong một số nội dung cơ bản giữa hương ước làng Công giáo nói chung với làng Việt, giữa làng Công giáo toàn tòng và làng Lương – Giáo qua từng giai đoạn khác nhau, cho thấy tính kế thừa cũng như phát huy những giá trị nhân văn của hương ước trong đời sống văn hóa – xã hội của người dân giai đoạn hiện nay. Qua những nét khác biệt trong nội dung hương ước làng Công giáo toàn tòng và làng Lương – Giảo sẽ thấy rõ vai trò của các tổ chức thiết chế chính trị – tôn giáo trong làng Công giáo nói chung là khác nhau thể hiện qua các mối quan hệ, qua cách ứng xử của từng cá nhân, tập thể trong làng, điều đó cho thấy tính mềm dẻo, linh hoạt của người Công giáo trong vấn đề hội nhập văn hóa hết sức khéo léo và tinh tế.
Cuốn sách này như là một trong những đóng góp nhỏ vào khối Di sản văn hóa Công giáo ở Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm khối tư liệu về làng xã Việt Nam và cũng là nguồn giá trị có ý nghĩa, có sức sống dẻo dai trong nền văn hóa của Việt Nam.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc cuốn sách Hương tước làng Công giáo vùng đồng bằng sông Hồng: Lịch sử và hiện tại.
PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương
Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo
220.000đ
259.000đ
-15%Sách Khi Chúa gọi con – 100 Bài Gợi Ý Giảng Lễ An Táng
Giáo Hội ưu tiên cử hành lễ An Táng cho người đã khuất với nghi thức đặc biệt. Thừa tác viên cử hành được khuyến khích nên làm sáng tỏ mầu nhiệm sự Chết và Phục Sinh của Đức Ki-tô, để củng cố niềm tin và đem lại niềm an ủi, sự hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau cho những người tham dự.
Trong thánh lễ An Táng, thường có bài chia sẻ Lời Chúa, nhưng nên vắn gọn, vì những người liên hệ với đám tang đã mỏi mệt. Đây không phải là bài chia sẻ riêng cho người qua đời, hoặc là bài ca tụng công đức của họ. Cần thận trọng khi kể đến công đức của người quá cố, vì điều này có thể gây dị ứng cho một số người tham dự biết rõ đời tư của người ấy. Bài chia sẻ là sứ điệp Lời Chúa gửi đến tất cả mọi người tham dự lễ An Táng, trong đó có những người không Công giáo, hoặc những người Công giáo nhưng ít khi tham dự thánh lễ, hoặc là những người Công giáo coi như đã xa rời đức tin. Đây là dịp để những người không Công giáo được hiểu biết về ý nghĩa đích thực của sự chết và niềm tin Công giáo về cuộc phục sinh; đây cũng là dịp để đánh thức những người Công giáo quên Chúa hoặc đang xa Chúa (x. Quy chế Tổng Quát Sách Lễ Rô-ma số 338, 341). Nhiệm vụ này thật cao quý và đáng trân trọng.
Xin khiêm tốn cống hiến một số gợi ý cho bài chia sẻ trong dịp đặc biệt này.
Lm. Anphong Nguyễn Công Vinh
0đ
65.000đ
-%

















Trước